Tôi là AHF – Bác sĩ Trương Văn Dũng: Khôi phục cuộc sống sau song sắt

In vụ nổ, Tôi là AHF bởi Olivia Taney

Tiến sĩ Trương Văn DũngTrưởng phòng Y tế và Môi trường tại một cơ sở được AHF hỗ trợ. Câu chuyện của anh ấy là phần tiếp theo trong loạt bài “Tôi là AHF” của chúng tôi, giới thiệu những nhân viên, khách hàng và đối tác xuất sắc đang làm điều đúng đắn để cứu sống con người mỗi ngày. 

 

Bác sĩ Trường (giữa) tại lễ kỷ niệm 15 năm thành lập AHF Việt Nam.

 

Tôi vẫn còn nhớ đầu những năm 2000, khi tôi mới bắt đầu làm việc tại Trại giam Thanh Lâm, một trại giam nằm sâu trong vùng núi Việt Nam. Đường xá hiểm trở, nguồn lực hạn hẹp, và điều kiện sống khắc nghiệt. Cơ sở của chúng tôi giam giữ hơn 3,000 tù nhân từ khắp cả nước, nhiều người trong số họ bị bệnh nặng. Trong số đó có những người nhiễm HIV đã chuyển sang AIDS.

Vào thời điểm đó, chúng tôi không thể tiếp cận điều trị bằng thuốc kháng vi-rút (ARV) cho tất cả bệnh nhân. Xét nghiệm HIV khẳng định chỉ dành cho những người có nguy cơ cao nhất. Chúng tôi đã cố gắng hết sức - hợp tác với các trung tâm phòng chống AIDS địa phương, các bệnh viện huyện và tỉnh để điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội và cung cấp dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ. Tuy nhiên, vẫn chưa đủ. Mỗi năm, chúng tôi bất lực chứng kiến ​​hàng chục người tử vong vì các biến chứng liên quan đến AIDS.

Mọi thứ bắt đầu thay đổi vào năm 2015, khi chúng tôi thành lập phòng khám ngoại trú điều trị ARV. Với sự hỗ trợ từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) tỉnh và AHF, cuối cùng chúng tôi đã có cơ hội xoay chuyển tình thế. AHF đã trở thành đối tác quan trọng, đào tạo đội ngũ y tế và cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, vật tư và tài trợ.

Tôi nhớ một người đàn ông đến với các hạch bạch huyết sưng to ở cả hai bên cổ. Anh ấy gần như không thể ăn uống hay cử động. Chỉ sau một thời gian ngắn dùng thuốc ARV, các triệu chứng của anh ấy đã thuyên giảm. Nhiều người khác, vốn trông gầy gò, bắt đầu hồi phục. Họ có thêm sức mạnh và hy vọng.

Khi năng lực của chúng tôi tăng lên, sự tự tin của chúng tôi cũng tăng theo. Chúng tôi không còn sợ HIV nữa—chúng tôi đã điều trị nó bằng kiến ​​thức, bằng những loại thuốc tốt nhất hiện có, và bằng lòng nhân đạo và trắc ẩn. Ban lãnh đạo của chúng tôi nhận ra rằng công việc này không chỉ là chăm sóc sức khỏe—mà còn là về sự cứu rỗi, lòng nhân đạo và cơ hội thứ hai.

Giáo dục và nâng cao nhận thức đã trở thành chìa khóa. Chúng tôi đã đào tạo nhân viên y tế và cán bộ quản giáo. Bản thân các tù nhân đã học cách chấp nhận, hỗ trợ và bảo vệ lẫn nhau. Nỗi sợ hãi và kỳ thị bắt đầu phai nhạt mặc dù hoạt động can thiệp được thực hiện trong môi trường nhà tù.

Hiện nay, số ca tử vong liên quan đến HIV tại cơ sở của chúng tôi gần như bằng không. Bệnh nhân sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn. Hầu hết không còn cần chuyển lên các bệnh viện tuyến trên. Giờ đây, chúng tôi thấy được những gì có thể đạt được khi việc chăm sóc được nhất quán và toàn diện. Ngoài ra, AHF tích cực vận động chính sách ở mọi cấp chính quyền nhằm đảm bảo tù nhân nhiễm HIV có thể tiếp tục được điều trị ARV sau khi tái hòa nhập cộng đồng, giúp ngăn ngừa gián đoạn điều trị.
Thành công này là kết quả của nhiều bàn tay, nhưng AHF đóng vai trò trung tâm. Từ thuốc men, đào tạo đến trang thiết bị và vật tư, sự hỗ trợ của họ đã thay đổi cuộc sống và nâng cao toàn bộ hệ thống.

Phòng khám của chúng tôi hiện đã được tích hợp vào mạng lưới ứng phó HIV quốc gia. Chúng tôi trao đổi kiến ​​thức, chia sẻ thực hành và hỗ trợ những người khác muốn nhân rộng mô hình của chúng tôi. Hiệu ứng lan tỏa đang ngày càng lớn mạnh, và mọi người đang tiếp cận các dịch vụ cứu sống với sự tuân thủ nhất quán.

Chúng tôi đã đi được một chặng đường dài, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm. Chúng tôi cần được đào tạo, trang thiết bị và sự khích lệ. Với sự đồng hành của AHF, chúng tôi vẫn cam kết trở thành cầu nối giữa khó khăn và chữa lành. Tôi hy vọng những gì chúng tôi đã đạt được trong nhà tù của mình có thể được nhân rộng ra tất cả các nhà tù khác trên khắp Việt Nam.

100 tổ chức lên án Gilead tăng giá thuốc ADAP
AHF khen ngợi Thống đốc California Newsom vì đã ký Dự luật Cải cách PBM (SB 41, Weiner)